Main » 2012 » June » 27 » Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 3)
1:40:54
Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 3)

Ark of the Covenant Discovery, Part 3

Hòm Giao Ước, P.3



The Excavation Begins - Cuộc khai quật bắt đầu…

It was January 1979, when Ron and the boys returned to Jerusalem, and snow was on the ground. He now had to decide how and where to begin. The site he had pointed to was being used as a trash dump and appeared to hold very little promise to the human eye. It was located along this escarpment where the ground met the cliff-face. He had investigated the area adjacent to the escarpment and realized that the ground was raised to a much higher level today, which meant that the bedrock was many, many feet below the present ground level. Đó là vào tháng Giêng năm 1979, Khi Ron và hai con trai quay lại Jerusalem, lúc đó tuyết khắp nơi trên mặt đất. Bấy giờ Ron đã phải  đưa ra quyết định xem là phải bắt đầu từ chỗ nào và làm cách nào đây... Khu vực mà ông đã chỉ tay vào, trước đây từng là một đống đổ nát và với mắt trần của loài người thì thiệt là quá ít hy vọng. Chỗ đó nằm dọc theo vách núi, chỗ mà bề mặt vách núi tiếp giáp với mặt đất. Ông đã nghiên cứu khu vực nằm liền kề vách núi và nhận ra rằng: mặt đất khi xưa nó thấp và đã dần được nâng cao lên ngày càng nhiều hơn cho đến bây giờ (tính vào thời điểm ông Ron khảo sát); điều này có nghĩa là nền đá gốc (phần mống cứng nguyên thủy của núi đá) đang nằm rất rất sâu nhiều feet bên dưới độ cao của lớp đất hiện tại (1 foot = 0.3048 meters) .


In the past, Jerusalem has been destroyed many, many times, and the customary method of rebuilding these ancient cities was to simply build on top of the destruction level. Today, the debris is removed before rebuilding, but not so back then. This is why archaeologists are able to find evidences of many cities which have existed on the same site - they simply excavate through each successive level down to the next until they reach bedrock - which indicates that they have reached the first city to be established on that particular site. Trong quá khứ, Jerusalem đã bị phá hũy rất nhiều lần, và theo phong tục của người xưa là xây mới lại các thành phố cổ thì chỉ  việc đơn giản là tiếp tục xây chồng lên đống đổ nát. Còn ngày nay, đống xà bần này phải tháo dời đi chỗ khác trước khi xây lại cái mới khác, dù vậy nó cũng không thể trở về nguyên thủy được (không thấp y như nguyên thủy được). Đây chính là lý do vì sao nhiều nhà khảo cổ học có thể tìm ra các di tích của nhiều thành phố cổ mà trước đây từng tồn tại trên cùng một vị trí_họ đơn giản chỉ việc đào lần lượt qua các lớp đất đá xuống bên dưới cho đến khi nào thấy cái lớp nền đá nguyên thủy hiện ra – điều này có nghĩa rằng họ đã "chạm” đến cái nền thành (phố) đầu tiên được xây ngay tại khu vực đó.


The site Ron was to excavate had a ground level many feet higher than the quarry floor to the south before the city wall. So he and the boys could do nothing but begin to dig straight down. Khu vực mà ông Ron chuẩn bị đào đây, nó có một nền đất khá cao hơn so với cái nền của đập/mỏ đá ở phía hướng Nam trước tường thành. Vì thế ông và hai con trai không thể làm gì được ngoại trừ là bắt đầu đào thẳng xuống dưới.


The original location that he had pointed to in 1978, contained an extremely large boulder just barely exposed above the surface, and Ron decided to begin digging several yards to the right. It was to be a job of mammoth proportions - these three, Ron, Danny and Ronny, would eventually remove many tons of rock and debris, having to sift through all of it for any artifacts. This was a requirement of the Department of Antiquities which they would always comply with. Khu vực mà ông đã chỉ kia là vào năm 1978, nó bao gồm luôn cả một tảng đá rất to nằm lộ ngay bên trên bề mặt, thế nên Ron đã quyết định đào xịch về bên phải nó chừng vài yard (1 yard =0.914m). Nó bự chắc cở con voi ma-mút vậy – 3 người gồm: ông Ron và 2 con trai Danny với Ronny, đã phải dở bỏ đi hàng tấn đá và xà bần, rồi cũng phải sàng lọc qua hết tất cả trong đống xà bần đó để mà xem coi có cái gì là do con người tạo nên không. Đây là yêu cầu của Bộ Quản lý về khảo cổ và cổ vật địa phương mà họ phải tuân theo.


Their First "Discovery"
Phát hiện đầu tiên


They proceeded to dug straight down along the cliff face, forming a steep wall with the earth they had removed. Almost immediately, Ron noticed a "shelf-like" niche cut into the face of the cliff. Digging down further, he discovered there were three of these "niches" cut into the face of the cliff with a smaller one on the right side. Họ tiếp tục đào thẳng xuống dọc theo mặt vách núi, với số đất họ dời đi tạo thành một vách dốc xuống. Ngay lập tức, Ron đã nhận thấy là có một cái hốc tường giống như cái ngăn (hộc) được cắt vào bề mặt của vách đá. Đào xuống sâu hơn nữa, ông phát hiện ở đó có thêm 3 cái hốc khác cũng được cắt vào vách đá, mà một cái nằm bên phải thì nhỏ hơn tí.
 
 
He was convinced that these were cut into the cliff-face to hold signs or notices. And because of the location- in the vicinity of the skull-face, and because there were three of these, he believed they were used to post the notices stating the crime of the crucifixion victim in three languages, Greek, Hebrew and Latin. Ông Ron đã tin chắc là mấy cái hốc này được cắt vào tường để giữ mấy cái bảng hiệu hay là bảng thông báo gì đây.


Roman Crucifixions - Quân La Mã và Hình Phạt Đóng Đinh Trên Thập Tự Giá


He had studied the available information on Roman crucifixions and had discovered that they used this form of punishment as a deterrent. The well-known quote of Quintillian explains: Ông đã nghiên cứu thông tin có giá trị về việc hình phạt đóng đinh trên thập tự giá của quân La Mã và đã khám phá ra một điều là quân La mã đã dùng  kiểu hình phạt này như là một cách để nhục mạ để nhục chí kẻ thù. Một nhà văn Ý Quintillian giải thích rằng:


"Whenever we crucify criminals, very crowded highways are chosen, so that many shall see it and may be moved by fear of it, because all punishment does not pertain so much to revenge as to example." " Bất cứ khi nào chúng tôi đóng đinh kẻ thù mình, thì cũng chọn chỗ đường cái nơi có đông người qua lại, vì rằng có rất nhiều người thấy đó mà làm gương để tránh khỏi việc đó; bởi vì tất cả sự hình phạt làm gương đó là để cho người khác thấy không có cơ hội trả thù nữa.”


Roman crucifixions consisted of three basic elements, all perfectly described in the account of the crucifixion of Christ - first, the scourging; then the carrying of the crossbeam by the condemned to the site; and finally the nailing or binding of the condemned to the cross-beam and then attaching this beam onto the upright post. Việc quân La Mã đóng đinh bao gồm 3 yếu tố cơ bản, tất cả được mô tả thật hoàn hảo trong câu chuyện Đấng Christ bị đóng đinh – thứ nhất: bị phạt bằng roi, kế tiếp là tử tội phải mang vác thanh ngang của thập giá đến nơi bị tử hình; và sau đó bị đóng đinh hoặc tử tội bị buộc chặt vào thanh ngang của cây thập giá và cuối cùng quân La Mã treo thanh ngang đó lên thân cây trụ đứng của thập tự nữa là xong.


But another element was also involved. In order to be a deterrent, the CRIME of the victim had to be posted in clear sight of the passers-by. For this purpose, they used a titilus, which was a board covered with gypsum, inscribed with black letters. This was usually carried ahead of the victim on the way to the crucifixion, and then posted above the cross in clear sight. The common conception about Christ's crucifixion was that a single sign written by Pilate was nailed to His cross above His head. Nhưng vẫn còn một yếu tố khác nữa cũng có liên quan. Đó là để làm nhục tử tội, TỘI ÁC của nạn nhân đã bị đưa lên bêu xấu trên một tấm bảng để người qua đường xem cho rõ. Với mục đích này, họ sử dụng một bảng đề danh hiệu, đó là một tấm bảng được phủ lớp thạch cao, trên đó danh hiệu được ghi chữ màu đen. Cái bảng này thường thường được mang đi trước nạn nhân trên đường đến nơi đóng đinh, và được đặt bên trên thập giá ở vị trí dễ thấy. Thường xưa nay, khái niệm chung của chúng ta là khi đóng đinh Đấng Cứu Thế, thì đơn giản là một cái bảng được Phi-lát viết lên rồi cho đóng đinh tấm bảng đó vào cây thập tự ngay phía trên đầu của Ngài.


This may very well have been, however, in order for the passers-by to be able to read these signs, written in three different languages, they would have been quite large, much larger than a small hand-written notice on paper.  Just recently we learned a great deal about the visibility of signs at our new museum. We put up signs that looked very large to us (six- and eight-inch letters), but when we placed them on our building and walked across the street, or even to the end of the parking lot, we discovered that they were very difficult to read. A sign written by Pilate on a piece of paper, nailed to a cross, would have been almost impossible to read even by those standing directly in front of the cross. Add to this the fact that in Jerusalem, three different languages were common (Hebrew, Greek and Latin) and it becomes apparent that the signs above Christ's head were much larger than we have commonly believed. Tuy nhiên rằng, nếu để cho những người qua đường có thể đọc được nội dung cái bảng, nó đã phải được viết bằng 3 thứ tiếng khác nhau trên 3 bảng khác nhau, và chúng phải khá lớn, phải lớn hơn nhiều so với chữ viết tay thông thường trên tấm bảng giấy. Gần đây điều mà chúng tôi học được tại bảo tàng mới của chúng tôi là Việc thấy rõ bằng mắt với các ký hiệu từ xa là một vấn đề. Chúng tôi dựng các bảng lên thử, nó nhìn quá lớn với chúng tôi (mấy chữ đó cao từ 6 đến 8inch [1 inch =2.54cm]), nhưng khi chúng tôi đặt nó trên tòa nhà cao rồi đi ngang qua lại trên đường, hoặc thậm chí đi đến hết khu để xe, chúng tôi thấy khó đọc quá. Cho nên, cái bảng nếu mà Phi-lát viết trên miếng giấy, đóng đinh nó vào thập tự, thì có lẽ đã phải rất khó lòng đọc được, thậm chí nếu như có mấy người đứng ngay phía trước thập tự, họ cũng không đọc được nó nữa chứ. Thêm nữa, sự thật là tại Jerusalem, 3 ngôn ngữ được sử dụng chính lúc đó là: tiếng Hê-bê-rơ, tiếng Hy lạp và tiếng La-tinh) và nó trở nên rõ ràng không thể chối cãi là các tấm bảng phía bên trên đầu của Đấng Christ đã lớn hơn nhiều so với những gì thông thường trong trí của chúng ta xưa nay.
 
"Jesus of Nazareth the King of the Jews"
 "Jesus từ Nazareth Vua dân Giu-đa”

When Ron read and reread the accounts of these signs at Christ's crucifixion, he discovered that although they had been translated to read "ON the cross," the Greek could just as accurately have been translated "above the cross" or "over the cross." Khi Ron đọc đi đọc lại về câu chuyện cái bảng đặt tại nơi Đấng Christ bị đóng đinh, ông phát hiện ra rằng mặc dù người ta dịch là "trên cây thập tự”, thì tiếng Hy Lạp lẽ ra phải được dịch chính xác hơn là "phía trên cây thập tự” hoặc là " bên phía trên cây thập tự”


"And they crucified him,... 36 And sitting down they watched him there; 37 And set up over his head his accusation written, THIS IS JESUS THE KING OF THE JEWS." MAT 27:35" "36 Rồi họ ngồi đó mà canh giữ Ngài. 37 Phía trên đầu Ngài họ để cái bảng đề chữ, chỉ về án Ngài, rằng: Người nầy là Jêsus, Vua dân Giu-đa.” (Mat 27:35)"


"And he bearing his cross went forth into a place called the place of a skull, which is called in the Hebrew Golgotha: Where they crucified him, and two other with him, on either side one, and Jesus in the midst. And Pilate wrote a title, and put it on the cross. And the writing was JESUS OF NAZARETH THE KING OF THE JEWS. This title then read many of the Jews: for the place where Jesus was crucified was nigh to the city: and it was written in Hebrew, and Greek, and Latin."  JOHN 19:17-20 "17 Đức Chúa Jêsus vác thập tự giá mình, đi đến ngoài thành, tại nơi gọi là cái Sọ, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Gô-gô-tha. 18 Ấy đó là chỗ họ đóng đinh Ngài, lại có hai người khác với Ngài, mỗi bên một người, còn Đức Chúa Jêsus ở chính giữa.19 Phi-lát cũng sai làm một tấm bảng, rồi treo lên trên thập tự giá. Trên bảng đó, có đề chữ rằng: Jêsus người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa. 20 Vì nơi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh ở gần thành, và chữ đề trên bảng đó viết bằng chữ Hê-bơ-rơ, chữ La-tinh và chữ Gờ-réc, nên có nhiều người Giu-đa đọc đến.” (Giăng 19: 17-20)


In the above quote from John it states that the "title" was put "on" the cross. The Greek word here translated to read "on" is "epi."  In Luke, this following verse also tells about the same "title," but here the word "epi" is translated to read "over:"  Trong đoạn trích trên trong sách Giăng, ta thấy rằng "danh hiệu” được treo "LÊN TRÊN” thập giá. Tiếng Hy Lạp ở đây ("EPI”= bên trên) thành ra là chữ "LÊN TRÊN” = "on”. Trong sách Luca, cũng câu này nói về việc đề danh, nhưng chữ "EPI” được dịch ra là "Over” (bên trên, phía trên)


"And a superscription also was written over him in letters of Greek, and Latin, and Hebrew, THIS IS THE KING OF THE JEWS."  LUKE 23:38 "38 Phía trên đầu Ngài, có đề rằng: Người nầy là Vua dân Giu-đa”  (Luca 23:38)


"Over" certainly could NOT be translated to read "on" in this above verse! "bên trên” (over) chắc chắn không thể được dịch thành "ở trên” (on) trong câu trên được!


This same word, "epi," is also translated in other places to read "above."  Cũng từ này, "epi” thì chỗ khác lại được dịch là "phía bên trên”


Therefore, the Scriptures do not specifically state that the "title" was nailed onto the physical cross Thế nên, Thánh Kinh không có nói cụ thể là "danh của Ngài” được đóng đinh lên chính ngay ở trên cây thập tự.


 All it states for sure is that the "title(s)" were placed "over," "above," "about," etc., the cross. Tất cả điều này chắc chắn Thánh Kinh nói là "danh hiệu” (số ít hoặc số nhiều) đã được đặt "phía trên”, "bên trên”, "khoảng trên” thập tự,…v.v…


So with this understanding , and the information on Roman crucifixions and the titilus covered in gypsum and written in black ink that the Romans were known to use, Ron felt his conclusions were a possibility.  Little did he suspect how it would later be so incredibly confirmed.  Vì thế, để hiểu đúng chỗ này, thông tin về sự đóng đinh và về tấm bảng danh hiệu được phủ lớp thạch cao và chữ viết lên đó mực màu đen đó là người La Mã thường dùng được nhiều người biết đến, Ron cảm thấy kết luận của ông có lẽ là có khả năng lắm. Có một số nghi ngờ nhỏ của ông về sau đã được xác chứng cách kinh ngạc.


When he first found the niches, he placed boards in them for demonstration purposes. Digging deeper, and showing that there were no more niches below these, he had signs painted in the three languages which they set up and photographed. He believed the much smaller niche was for the ever-present Roman eagle. But again, this wasn't the purpose of this excavation so they continued to dig. Khi ông ấy lần đầu tiên tìm thấy mấy cái hốc đá, ông đặt mấy cái bảng vào đó để mục đích xem thử. Đào xuống thêm, và không thấy thêm cái hốc nào  ở dưới nữa hết, ông đã cho viết sơn lên đó bằng 3 ngôn ngữ mà quý vị thấy hình chụp ở đây. Ông tin là có cái hốc đá nhỏ hơn khác nữa cho con Đại bàng La Mã Cổ (Roman Eagle)_1 biểu tượng sức mạnh và  tôn giáo của dân La Mã Cổ. Nhưng đây không phải là mục đích của lần khai quật này, vậy nên họ tiếp tục đào…


In Danger of Collapse - Đối mặt với nguy cơ sập núi


As they continued to dig straight down, the cliff face was on one side, forming a solid wall. But on the other side, the earth wall began to exhibit signs of instability and Ron feared that it would soon collapse, perhaps burying them in the hole. He decided that they should move back along the cliff-face to the original site that he had pointed to. He dreaded it because of the huge boulder he had found just under the surface - but he felt he had no choice. Khi họ tiếp tục đào thẳng xuống, cái mặt vách đá nằm một bên này, tạo nên một bức tường vững chắc. Nhưng mặt bên kia, đất bắt đầu lộ ra những dấu hiệu không bền vững và Ron sợ rằng sớm muộn gì nó cũng sẽ sập xuốn, có lẽ họ sẽ bị chôn chặt trong cái lỗ đó. Ông quyết định là thôi phải quay lại dọc theo cái vách đá trở về khu vực hồi đầu tiên mà ông đã chỉ vào. Ông sợ điều này vì ngay bên dưới cái bề mặt đó (chỗ ông chỉ vào) là nguyên một khối đá rất to nằm chắn ở đó – nhưng giờ ông không còn sự lựa chọn nào khác.
Back to the Original Site Trở lại khu vực đầu tiên


Ron had felt justified in beginning the excavation several yards from the original site, because it was in the same general area. With the discovery of the niches, he was satisfied that it hadn't been a completely wasted effort - but still he had another purpose for this excavation. Ron ban đầu cảm thấy là đúng khi bắt đầu khai quật cách xa vị trí ban đầu vài yard (1yard =0.914m), bởi vì nó cũng cùng một khu vực chung thôi. Với việc phát hiện ra các hốc đá, ông đã cảm thấy hài lòng vì ít ra nổ lực đó cũng không phải là vô ích.Nhưng mà ông vẫn còn mục đích khác cho cuộc khai quật này.


As they began to dig around the huge boulder extending out from the original site, he discovered that there was enough room behind it (between it and the cliff-face) to begin their dig. As they began to dig downward, they very soon came upon another item of interest. Carved out of the cliff-face was a hole which extended through a section of protruding rock allowing a rope or similar object to be threaded through it. The great care obviously devoted to chiseling out this object indicated that it had an important use, but they would learn about that later. Khi họ bắt đầu đào xung quanh cái khối đá to lớn kéo dài ra ngoài từ khu vực đầu tiên đó, ông đã khám phá ra là ngay phía sau nó (giữa cái khối đá và vách núi đá) có đủ chỗ cho họ bắt đầu đào. Khi họ bắt đầu đào xuống, chẳng mấy chốc họ tìm được một món khác khá thú vị. Ngay chỗ cái chỗ vách đá bị đục ra là một cái lỗ mà nó được mở rộng thông qua một khu vực có tảng đá nhô ra, cho phép một cái dây thừng hay là cái vật gì giống vậy xỏ xuyên qua cái phần đá nhô ra đó (xem hình). Rõ ràng việc mất nhiều thời gian đục cách cẩn thận quanh cái vật này cũng cho thấy rằng nó phải là một vật gì đó rất quan trọng mà trước đây người ta dùng đây, nhưng lúc đó họ chưa hiểu cái gì cho đến mãi đến sau này mới hiểu ra.

    

The first site they had begun excavating was where the cliff-face was relatively vertical like a wall. Here, the cliff-face slanted inward, forming a "roof" over the place they were digging. As they dug down into the earth, they found open areas beneath the surface which contained a large amount of pottery shards, and even a few pieces still intact. Khu vực mà họ đã đào hồi đầu tiên, chỗ đó vách núi khá thẳng đứng như bức tường. Còn ở đây, vách đá hơi nghiêng vào trong, tạo nên một cái "mái che” phía trên chỗ họ đang đào. Khi họ đào xuống dưới đất, họ đã tìm thấy một số khu vực mở phía bên dưới chứa một số lượng khá lớn những mảnh gốm bị vỡ, và thậm chí, một vài miếng vẫn còn nguyên vẹn.
   
A Grain Storage Bin later Used as a Cistern Thùng chứa lương thực (ngũ cốc) sau này được dùng như bể chứa nước.


They reached bedrock 38 feet below the present ground surface. Carefully removing debris, they found themselves in an approximately 15 foot diameter round chamber carved out of the rock with steps chiseled into the shaft descending from the top in a spiral to the bottom. Họ khi khai quật đến mức độ 38 feet (1158.24cm) bên dưới so với lớp mặt đất hiện tại. Lúc di dời đóng xà bần khỏi đó cách cẩn thận, họ tìm thấy một khu vực như cái hố hình trụ tròn (hầm hình trụ tròn) lớn với đường kính xấp xỉ 15 foot(457.2 cm) được khoét ra từ đá với những bậc thang được đục vào thân cái hầm/hố (hốc đá) theo chiều xoắn ốc từ trên xuống dưới.


At some point in time it had been modified and plastered, reused as a cistern. Either of these explanations would explain the presence of the "rope hole" chiseled in the cliff-face -- it was for the rope that held the bucket or jug which was lowered down into the shaft to retrieve grain or water. Ron chiseled through the plaster and found a large amount of pottery among the dirt and debris used as fill to form the cistern. Vào một lúc nào đó trước đây, cái chỗ này được sửa lại và đắp thêm lớp vữa (thạch cao), được dùng lại như cái bể chứa nước sau đó. Giải thích theo một trong hai lý do này thì có thể lý giải được cái khu vực tạm gọi là " Cái lỗ có sợi dây thừng” lúc nãy nói, được đục vào trong vách đá – Nó được dùng  làm chỗ buộc cái sợi dây thừng vào đó rồi đầu còn lại buộc vào cái gàu hoặc cái bình (có quay và vòi) thả xuống bên dưới này để lấy ngũ cốc hoặc nước lên. Ông Ron đục xuyên qua phần thạch cao (hồ vữa) và tìm thấy một số lượng lớn đồm gốm sứ trong đống xà bần dơ bẩn được dùng để đấp tạo thành cái bể chứa nước.


When he turned these pottery pieces in to the Israeli Antiquities and they examined them, they informed Ron that some of them date back to the Jebusite time (before David took the city). The latest dated specimens were from the Roman period, which tells us that the grain bin was plastered during Roman times. Khi ông mang những miếng gốm vỡ này đến những người chuyên về cổ vật người Israel và nhờ họ kiểm tra, kết quả họ thông báo cho ông Ron là một vài món có niên đại từ thời Jebusite (trước khi Vua Đa-vít đánh chiếm thành phố này). Còn những mẫu vật khác có niên cận đại nhất là vào thời La Mã, điều này cho chúng tôi biết là bình chứa ngũ cốc được đấp thạch cao (tạo thành cái hầm, bồn/bể nước) là trong thời La Mã.


As exciting as these discoveries were, again they weren't what Ron was looking for. Thật là thú vị khi khám phá ra những điều này, nhưng một lần nữa, đây vẫn chưa phải là điều mà ông Ron đang tìm kiếm.


Tunneling Along the Cliff-Face  Đào đường hầm dọc theo vách đá


As they descended through the earth and debris, they were able to distinguish the Roman level because of the pottery and coins. Ron decided again that he needed to keep looking - that these things were not the object of his search. They covered up the circular shaft, careful to preserve everything, and began to tunnel under the present ground level along the cliff-face on the Roman level back in the direction of the first site they had begun to excavate. Ron was looking for an entrance into a cave or tunnel in the now underground cliff-face. But his next discovery was so gruesome that it still reflects in his face when he talks about it. Khi họ đã đi xuống sâu bên dưới xuyên qua lớp đất và đống xà bần đổ nát rồi, họ có thể xác định được nơi đó là đang ở tại tầng/lớp thuộc thời kỳ La Mã – bởi do dựa vào đồ gốm và những đồng xu. Ông Ron một lần nữa quyết định là họ cần phải tiếp tục cuộc tìm kiếm- dù rằng đến đây, những thứ họ phát hiện ra không phải là thứ mà ông đang có ý định tìm. Họ che đậy lại cái hố trụ tròn này (hầm trụ tròn), và cẩn thận bảo quản mọi thứ lại, xong rồi họ bắt đầu đào đường hầm bên dưới lớp tầng đất hiện tại (tầng thuộc về thời La Mã) dọc theo vách đá đi ngược lại cái hướng khu vực đầu tiên họ đã đào trước đây. Ron đang cố tìm kiếm lối chính vào hang hoặc địa đạo mà nằm bên trong lòng của vách đá. Nhưng phát hiện kế tiếp thật quá kinh khiếp đến nổi mỗi khi nhắc đến, điều này vẫn còn hiện lên nét mặt ông.


The Stoning Ground (Khu vực người ta bị ném đá)


The grain shaft/cistern was cut into the solid rock. Từ Chỗ cái hầm/ bể chứa lương thực/nước thì được cắt thẳng vào trong đá cứng.


When Ron began his tunnel back in the direction of the cut-out niches Khi Ron bắt đầu đào hầm ngược lại hướng mấy cái hốc đá lúc trước,


he found that the rock floor abruptly ended about three to four feet from the edge of the shaft. Ông nhận thấy nền đá đột ngột ngừng lại khoảng 3- 4 feet (từ 91.44cm đến 121.92cm) tính từ mép của cái hầm khi nãy nói.


Digging a three foot shaft straight down, he found a massive amount of fist-sized and larger rocks Đào thẳng xuống chừng 3 feet (91.4cm), ông tìm thấy một đóng lớn những viên đá khoảng chừng nắm tay và đá to hơn nắm tay.


 As he sorted through them, he found several human bones, in particular some finger bones Khi ông phân loại lại chúng, ông phát hiện ra vài xương người, và cụ thể hơn là một số xương ngón tay.


He believed he knew what this represented Ông tin rằng điều này cho ông biết nó có ý nghĩa gì rồi -


while it is common to find rocks in an excavation, it is NOT common to find them of this particular size in such a massive pile. It certainly wasn't a tomb -- and the disarticulated bones among the large rocks led Ron to only one conclusion -- this has been a stoning ground.Trong khi thông thường khi khai quật, thì tìm thấy đá là điều bình thường, nhưng ở đây thật bất thường khi tìm thấy đóng đá với kích thước cụ thể với một chồng khá lớn như thế. Nó chắc chắn không phải là một ngôi mộ - và xương rời ra thành từng khúc trong một đống đá lớn vậy đưa Ron đến chỉ một kết luận duy nhất – đó là nơi người ta đã bị xử ném đá.


"Then they cried out with a loud voice, and stopped their ears, and ran upon him with one accord, And CAST HIM [Stephen] OUT OF THE CITY, AND STONED HIM"  ACTS 6:57-58 58 kéo người ra ngoài thành, rồi ném đá người. Các kẻ làm chứng lấy áo xống mình để nơi chân một người trẻ tuổi kia tên là Sau-lơ. (Công Vụ 7:58)


A First Century Building (Công trình xây dựng thế kỷ đầu tiên)


When Ron realized what he had found, he quickly climbed back up the shaft he had dug and he and the boys continued their tunnel back in the direction of the first site. Soon, they found the remains of a buried structure. This building was built directly adjacent to the cliff-face and a portion of the back wall extended along the actual face of the cliff. The foundations of the building were still in place. Khi ông hiểu ra những gì ông đã tìm thấy, ông nhanh chóng leo ngược lên lại chỗ đào trước đây. Ông và hai đứa con tiếp tục đào đường hầm ngược lại hướng khu vực ban đầu. Không lâu sau, họ tìm thấy phần còn lại của một cấu trúc bị chôn vùi.  Công trình xây dựng này được xây liền kề sát vách đá, mà phần phía sau của công trình được nối dọc theo bề mặt vách đá hiện tại. Cái nền của công trình đó hiện vẫn còn đó.

    

As Ron studied the best preserved sections, he discovered a hewn stone extending out horizontally from the wall against the cliff face- his first impression was that it was an altar. It displayed smooth wear on top. Khi ông Ron nghiên cứu những khu vực còn được bảo tồn tốt nhất (qua thời gian), ông khám phá ra một tảng đá được tạo nên do (con người) đục đẻo, nó được nằm lồi ra ngoài theo chiều nằm ngang tính từ phía vách đá_Ấn tượng đầu tiên về nó mà ông có thể nói là: nó chính là một cái bệ thờ. Bề mặt trên của nó mòn nhẵn.
 

 

It was below and in front of this altar stone that Ron noticed a very unusual large rock. When he examined the rock closer, he saw that it was covered in travertine. Travertine is formed when underground acidified water seeps through pre-existing limestone and dissolves calcium carbonate; as this water containing calcium carbonate flows over objects and begins to evaporate or lose its carbon dioxide, this dissolved limestone is re-deposited in the form of stalactites and stalagmites, flowstone, etc. In this case, it was re-deposited in the form of a coating over the rock which can be clearly seen when examining the rock in person.  Ngay bên dưới và phía trước cái bệ thờ bằng đá này, Ông Ron chú ý một phiến đá rộng bất thường. Khi ông lại gần hơn để xem, thì ông thấy nó được phủ một lớp cao vôi. Cao vôi hình thành khi nước ngầm bị axit hóa rồi thấm qua lớp đá vôi từng tồn tại trước đây và làm tan chất canxi car-bô-nát; khi nước chứa Canxi Car-bô-nát chảy qua vật nào, thì nó bắt đầu bốc hơi và giải phóng khí Carbon Điô-xít, Đá vôi bị tan chảy này đã lắng đọng lại, rồi hình thành nên chất mới khác là thạch nhũ (Stalactite), măng đá (stalagmite), cặn canxi, v.v… Trong trường hợp này, nó đã lắng đọng lại thành một lớp phủ lên trên phiến đá mà chúng ta có thể nhìn thấy rõ bằng mắt thường khi chúng ta lại gần mà nhìn xem.
 
    
Ron thought this rock was much too symmetrical to be a natural-shaped rock, so he decided to pick it up and examine it more closely. When he lifted it, he discovered that it was covering a square-like hole chiseled into the bedrock. Ông Ron nghĩ rằng phiến đá này so với hình dạng đá tự nhiên thì nó quá là cân xứng, thế nên ông quyết định nhấc nó lên để mà xem cho rõ hơn. Khi ông nhấc nó lên, ông phát hiện ra là nó đang đậy một cái lỗ có hình vuông được đục vào trong (xuống) nền đá.



CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN KHÁC:
1.    Hòm giao ước được tìm thấy (Mở đầu)
2.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 1)
3.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 2)
4.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 3)
5.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 4)
6.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 5)
7.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 6)
8.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 7)
9.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 8)
10.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 9)
11.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 10)
12.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần Phụ lục - P1)
13.    Hòm giao ước được tìm thấy (Phần Phụ lục - P2)

Category: Hòm Giao Ước được tìm thấy | Views: 1835 | Added by: khaocokinhthanhvn | Rating: 3.0/1
Total comments: 0
Name *:
Email *:
Code *:
Login

Calendar
«  June 2012  »
SuMoTuWeThFrSa
     12
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930
Entries archive
Our poll
Rate my site
Total of answers: 2
who's online?

Total online: 1
Guests: 1
Users: 0
hit counters