Main » 2012 » June » 27 » Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 6)
1:50:08 Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 6) | |
Ark of the Covenant
Discovery, Part 6 Hòm Giao Ước, P.6 Oil Lamps Inside the Chamber-Những đèn dầu (ô-liu_Olive) trong hốc đá (hang) Just inside the chamber near the original entrance which was sealed up, he found a total of seven oil lamps that Ron believes had to have been left behind by Jeremiah and his men who brought the items into the chamber. The soot on the lamps and the rocks they sat upon clearly showed the direction of the breeze that followed them into the tunnel. One of the lamps is very ornate and displays Assyrian characteristics, which is consistent with the cultural influence in Judea at this time in 586 BC. The picture of this particular oil lamp was not taken with a camera because the design on the lamp doesn't show up well in a photo. Ngay bên trong hốc (hang) đá gần lối vào nguyên thủy bị lấp lại, ông tìm thấy tổng số là 7 cái đèn dầu mà ông tin là chúng bị Giê-rê-mi và người của ông ấy bỏ lại sau khi mang các đồ vật vào giấu ở đây. Cái nhọ (bồ hóng) bám trên những cái đèn và trên đá chỗ họ có lẽ ngồi lên cho thấy rõ hướng gió theo họ thổi vào trong đường hầm. Một trong số các đèn được làm rất hoa mỹ và cho thấy tính chất của dân Assyri, nó rất phù hợp với sự ảnh hưởng văn hóa của người Assyri trên miền Giu-đê vào giai đoạn này (năm 586 trước Công Nguyên (CN)). Chúng tôi chụp hình lại, nhưng không nhìn rõ lắm mấy cái họa tiết của cái đèn dầu. This picture was made by placing the lamp on a copier and it revealed a little of the design which we find very interesting. Hình này được ghi lại bằng cách đặt cây đèn lên máy photocopy, và nó cho thấy một ít họa tiết mà chúng tôi thấy thật thú vị. Sealing the Passageway to the Chamber-Lấp lối vào hốc đá (hang đá) After Ron's last visit to the chamber a number of years ago, he permanently sealed the tunnel which led to the chamber. Ron has learned many lessons over the years, and some he had to learn the hard way. One lesson he learned this way was that he had to be very careful with whom he shared his information. During the course of their excavation work, they had numerous experiences with people which could have been disastrous without Divine intervention. For example, one famous evangelist stumbled upon the entrance into the excavation one day, and Ron invited him to come down into the cave system. Sau lần ghé lại cái hốc đá (hang) cuối cùng cách đây nhiếu năm, ông ấy đã lấp cái đường hầm dẫn đến cái hốc đá đó luôn rồi. Ron đã học được nhiều bài học qua nhiều năm, và nhiều bài học trong số đó ông phải trả giá đắt. Một bài học mà ông học được từ kiểu này là ông cần phải hết sức thận trọng với người mà ông chia sẻ thông tin. Trong suốt thời gian thực hiện việc đào xới khảo cổ, họ đã trãi nghiệm nhiều thứ với nhiều người bất hạnh không có sự can thiệp của Chúa trong đời sống . Đơn cử, một vị truyển đạo nổi tiếng đã vấp ngã ngay cửa vào nơi khai quật một ngày nọ, và Ron đã mời ông ấy đi vào trong hệ thống hang này để thấy. Believing the man to be honest, Ron told him what they were searching for. Big promises were made of assistance. To make a long story short, a team of individuals from this evangelist's group later returned to the site, telling the authorities they were with the Wyatt excavation and that Ron would arrive in a few days, (which wasn't true), and they went down into the cave system and began to dig. The cave walls where they were digging suddenly collapsed and they just narrowly avoided being buried alive in the debris. They immediately packed up and returned home. No real harm was done except that Ron and the boys had to re-excavate the entire area of the collapse. Tin rằng người này thật thà, Ron kể cho ông ta nghe về những gì họ đang tìm kiếm. Một lời hứa hẹn giúp đỡ thật lớn được ông ta đưa ra. Để kể ngắn gọn, một nhóm những cá nhân từ nhóm truyền giáo này, sau đó quay trở lại khu vực đang khai quật, kể với chính quyền là họ đang cùng khai quật với Ron Wyatt, vài bữa nữa Ron sẽ đến sau (họ). (Điều này không phải sự thật), và họ đi xuống hệ thống hang và bắt đầu đào xới. Những bức tường của hang động mà họ đang đào đó đột ngột sụp xuống và họ suýt tí xíu nữa là bị chôn sống trong đóng xà bần đất đá đó rồi. Ngay lập tức họ cuốn gói và quay về nhà. Không có thương vong nào xãy ra, nhưng Ron và hai con đã phải đào lại toàn bộ khu vực bị sụp đổ đó. This and other similar incidents led Ron to seal the passage. With the honeycomb of tunnels, it would be almost impossible for anyone to find the correct passage, and this one now looked - even up close - as if it was a natural stone wall. Ron had done all that he could do using that passageway. It would be impossible to get any large object out of the chamber through that passage. All his attempts to photograph anything in the chamber resulted in photos or slides that looked like a complete blur, so he concluded that he simply wasn't supposed to take any photographs. He later understood why. At that time, he was much freer with sharing his information and this could have caused a lot of serious problems if some of the unsavory characters he came in contact with over the years had SEEN evidence that this solid gold object REALLY existed. (Noah's wife's grave was plundered after Ron told others.) The next order of business would be to find the main entrance into the chamber - the passage through which the items were originally taken. Việc này cùng với nhiều việc rắc rối khác tương tự thế khiến cho Ron lấp cái lối vào. Với những hang, đường hầm bên trong như tổ ong, rất khó cho ai có thể tìm đúng lối vào, và bây giờ nếu nhìn vào, thậm chí nhìn gần, nhìn nó như thể là một bức tường đá tự nhiên. Ron đã làm hết tất cả những gì ông có thể với cái lối vào đó rồi. Thật không thể đem bất cứ vật thể lớn nào, từ hốc đá đó, mà mang ra ngoài xuyên qua lối (đường hầm) đó được. Tất cả nổ lực của ông để chụp hình bất cứ cái gì trong cái hốc (hang) kết quả là hình nào cũng hoàn toàn bị mờ, thế nên ông đưa ra kết luận là lý do đơn giản là ông không được phép chụp bất kỳ hình ảnh nào ở đây. Sau này ông hiểu ra vì sao như thế. Lúc đó, ông không nghĩ gì khác hơn là chia sẽ thông tin của ông ngay với người khác và điều này dẫn đến quá nhiều vấn đề nghiêm trọng nếu như ông chia sẽ với một vài người có tính không tốt là ông đã thấy bằng chứng của những vật bằng vàng thật sự tồn tại (chuyện gì sẽ xãy ra?) (Ngôi mộ của vợ Nô-ê bị cướp bóc sau khi Ron kể cho một vài người nghe). Việc tiếp theo phải làm là tìm ra đường chính (cửa vào chính) vào cái hốc (hang) đó_cửa chính nào để đem mấy món đồ đó ra ngoài.
(Hình chỉ minh họa) The Original Passage Used to Carry the Ark into the Cave-Lối vào nguyên thủy được dùng để mang Hòm thánh vào hang To resolve this question, Ron began by using simple reason. The items had been in the temple - that was their point of origin. They were now in this chamber, many feet below ground level. A great number of tunnels have been found under the temple mount and the city, but none that he knew of were heading in this direction. Was the entrance into the tunnel within the city or was it somewhere across the street in front of the northern wall? Ron had an idea as to where to begin his search. Để giải đáp án này, Ron bắt đầu lấy lý do đơn giản: Những món đồ đó đem từ đền thờ ra _ đó là lý do đầu tiên. Bây giờ họ ở trong cái hốc đá (hang) này, cách mặt đất bên trên nhiều feet. Quá nhiều đường hầm được phát hiện ra bên dưới núi thánh (núi có đền thờ) và thành thánh, nhưng không có cái nào ông thấy nó dẫn đến cái hướng này cả (hướng đến cái hốc đá (hang chứa cái Hòm thánh)). Vậy thì cái lối vào chính nằm phía trong thành phố Jerusalem hay là ở đâu đó băng ngang qua con đường phía trước bức tường phía bắc? Ron đưa ra ý kiến là nên bắt đầu từ chỗ ông khởi công khai quật Zedekiah's Cave Hang Xê-đê-kia In the winter of 1854, Dr. Barclay, a physician and missionary, went for a walk in Jerusalem. He was walking to the site of the traditional Jeremiah's Grotto which is along the same Calvary escarpment. As he walked past the Damascus Gate, his dog ran ahead of him and vanished. As he searched for his dog he heard a muffled barking coming from the direction of the city wall. When he approached the wall, he noticed a deep hole. When he peered inside, he heard his dog's familiar bark. This is how Zedekiah's Cave was discovered. Vào mùa đông năm 1854, Tiến sĩ Barclay, một nhà vật lý học và là một giáo sĩ, đi bộ tại Jerusalem. Trong khi ông đang đi bộ tại khu vực được gọi xưa giờ là Jeremiah’s Grotto (Hang của Giê-rê-mi) nằm dọc theo vách đồi Golgotha. Khi ông đi ngang qua cổng Đa-mách (Damascus), con chó của ông đột ngột chạy vụt lên trước ông rồi mất hút. Lúc ông tìm con chó, ông nghe tiếng nó sủa văng vẳng ra từ phía trong bức tường thành. Khi ông lại gần bức tường, ông thấy có một lổ sâu. Rồi lúc ông coi kỹ bên trong cái lỗ đó, ông lại nghe tiếng con chó quen thuộc của ông đang sủa. Đó là cách mà hang Xê-đê-kia được phát hiện This vast cavern is located underneath the Muslim section of the city, extending 750 feet into Mt. Moriah, beginning at the trench or dry moat separating the northern and southern portion. It is 325 feet wide at the maximum point and the average height is almost 50 feet. It was clearly a stone quarry, but at what point it was in use, we really do not know. There are those who believe its stone was used in the first temple, and that may be true. But its existence was not a well known fact and most likely it was always kept completely sealed for fear of any enemies trying to tunnel into the city. So little is known for sure about the giant quarry, but one point everyone agrees on is the fact that there was no entrance into the city from the quarry. Cái hang động to lớn này nằm ngay bên đưới khu vực của người Hồi Giáo chiếm đóng trong thành phố, kéo dài 750 feet (228.6m) sâu vào trong núi Mô-ria, tính từ cái hào hay cái mương khô nước phân rẽ khu vực miền bắc với miền nam. Rộng nhất khoảng 325 feet (99.06m), và cao trung bình gần 50 feet (15.24m). Nó rõ ràng là một cái mỏ lấy đá, nhưng vào lúc nào người ta bắt đầu sử dụng nó, thì rõ ràng chúng tôi chịu (không biết). Có số người tin rằng đá trong cái mỏ đá nầy được lấy ra dùng cho việc xây cất đền thờ đầu tiên, và cũng có lẽ đúng. Nhưng sự tồn tại của cái mỏ đá này không được nhiều người biết đến nó lắm và gần như nó luôn bị khóa kín lại vì lo ngại kẻ thù tấn công vào trong thành. Cho nên có rất ít thông tin có thể chắc chắn về cái mỏ đá khổng lồ đó, tuy nhiên có một điểm mà hầu như ai cũng đồng ý là: Không có đường nào từ cái mỏ đó vào bên trong thành hết ! Viewing the diagram of its layout, the dark areas are pillars of solid rock left in place to support the ceiling, like the pillars left in a coal mine. As the miners work their way back out of the mine after depleting it of all its coal, they remove these pillars of coal and the mine usually caves in. These were obviously left in place to prevent the cavern from collapsing since part of the northern city is above it. As Ron examined the quarry carefully, he noticed one thing that concerned him. Xem cái sơ đồ của nó ở dưới đây, những khu vực vẽ đậm là những cột đá cứng chắc được chừa lại để đỡ lấy cái trần phía trên, giống như những cái cột trong một cái mỏ than vậy. Khi những người thọ mỏ rút lui khỏi mỏ sau khi khai thách hết than, họ bỏ các cột trụ này đi, và mỏ tạo nên các hang động bên trong. Rõ ràng là các trụ cột này được chừa lại đúng những chỗ đó để phòng ngừa cái hang động bị sụp đổ xuống, bởi nguyên do là thành phố phía bắc nằm ngay phía bên trên. Khi Ron khảo sát cái mỏ đá tỉ mỉ, ông nhận thấy một điều mà ông cấn lưu tâm. Seeing how deep into the side of the mountain the quarry extended, he thought about how much work it would have been to bring all that stone out of the quarry, carry it through one of the northern gates and into the city. It would have been easier to quarry it out of the quarry across the street than to haul it out of that cavern. To Ron, the solution was obvious - to cut a hole through the ceiling of the quarry and simply haul the rocks up into the city. The more he thought it about, the more obvious it became to him - yet, no one had ever found an entrance into the quarry from the city. So Ron began to examine the rock pillars. Sure enough, he found a vertical mound that wasn't a stone pillar at all. Ron believed it was a giant mound of earth and debris piled up to the ceiling and through a hole in the ceiling. Unable to examine the section above ground, he didn't know if the rock had been cut in a manner that would allow the cut-out section to fit back over the hole like a "man-hole cover" or if it was only the piled up earth that filled the hole. But he was convinced that the opening was there. Để xem coi cái mỏ đá sâu vào trong núi bao nhiêu, rồi ông nghĩ xem là cần bao nhiêu công việc để mà có thể mang tất cả đá ra khỏi cái mỏ đá như thế, rồi phải mang đá đó đi vào một trong các cổng thành ở phía bắc để vào được trong thành. Có lẽ dễ dàng hơn nhiều, nếu lấy đá bắng cách cắt ngang qua con đường vào trong mỏ, sau đó kéo đá lên cao ra khỏi cái hang để đưa ra ngoài. Với Ron, giải pháp quá rõ ràng- cắt cái lỗ bên trên trần của cái mỏ đá, và đơn giản kéo đá lên qua cái lỗ đó vào trong thành. Ông càng suy nghĩ về điều này nhiều, thì ông thấy nó rõ ràng như thế hơn với ông – tuy nhiên, chưa có ai từng tìm được cái lối vào cái mỏ đá từ trong thành cả. Vì thế, Ron bắt đầu khảo sát những cột trụ đá. Khi đủ chắc ăn, ông tìm một cái gò (ụ, mô) dựng đứng mà không có cái trụ đá nào chỗ đó hết. Ron tin rằng đó là một cái gò đất và đá lẫn lộn rất to, dựng đứng lên phía trần của mỏ đá và qua cái lỗ phía trên trần. Do không có khảo sát được phần bên trên mặt đất phía trên, nên ông không biết rõ là đá phía trên được con người cắt tạo ra một lỗ rồi cái lỗ bị lấp lại từ phía trên bởi đất đá như cái "nắp lỗ”, hay là do đất đá từ dưới này từ từ dâng cao lên đấy cái lỗ đó. Nhưng ông bị thuyết phục là có lỗ hở ở đó. CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN KHÁC: | |
|
Total comments: 0 | |
Login
Entries archive
Our poll