Main » 2012 » June » 27 » Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 5)
1:47:26
Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 5)

Ark of the Covenant Discovery, Part 5

Hòm Giao Ước, P.5


The Promise (Lời hứa)


As I explained in an earlier issue, Ron has never heard God speak audibly - he just prays about what he should do and then sometimes receives an impression.  By now, he had been excavating for such a long time, he was beginning to wonder if he was wasting his time and had misinterpreted what he was supposed to do.  He as usual prayed and asked to know what to do before he scheduled the December 1981, trip. Although he still heard no audible voice, a promise came into his mind that he would find the Ark of the Covenant on that trip. He believed with all his heart that it was a true promise from the One who could make such a promise and keep it.  But things couldn't have looked worse, as Danny and Ronny were both very sick, and Ron was probably equally as sick but far more persistent or stubborn, because he stayed to keep working. Working alone without the boys, he needed someone help with the excavation. Như tôi đã giải thích trước đây, Ron chưa bao giờ nghe Chúa phán với ông bằng tiếng nói (âm thanh thật) cả - ông chỉ cầu nguyện về những gì ông nên làm và rồi đôi khi ông nhận được một cảm giác ấn tượng nào đó. Còn bây giờ, ông đã đào xới cũng lâu rồi, ông vừa đang đào vừa tự hỏi là liệu rằng có phải ông đang phí thời gian hay không? Hay là ông đã dịch sai cái cảm giác của mình để làm việc này đây? Cũng như mọi lần, ông đã cầu nguyện để hỏi ý Chúa cho ông biết là ông phải làm gì trước khi ông lên kế hoạch cho chuyến đi vào tháng 12 năm 1981. Dù rằng ông vẫn chưa nghe tiếng Ngài thật sự, nhưng một lời hứa đến trong tâm trí ông là ông sẽ tìm thấy Hòm Giao Ước vào chuyến đi này (!) Ông tin với tất cả tấm lòng là lời hứa ấy thật sự đến từ Đấng có quyền năng để ban lời hứa này và thành tín để giữ lời hứa đó. Nhưng mọi việc không có vẻ tội tệ hơn nếu như Danny và Ronny cả hai đều không bệnh nặng thế này, còn Ron có lẽ bệnh nặng không kém, nhưng do ông bền lòng hơn hay cứng đầu hơn không biết, ông vẫn cứ tiếp tục và cần một ai đó để phụ với ông để đào.


When excavating over the years, he had hired locals to help, mostly with the above-ground work, such as hauling off debris.  Each time they opened their excavation and worked, they had to completely restore the above-ground area before they left.  This was a condition set by the Garden Tomb proprietors of their being allowed to continue.  They had moved tons of earth and debris over the years which required local assistance in hauling it off. (xoay huong, rut lui)
Qua nhiều năm khai quật, ông cũng có thuê một số người dân địa phương để giúp, hầu hết công việc họ làm là đứng ở trên mặt đất,ví dụ như là họ phụ kéo đất đá lên khỏi hầm rồi đổ nó đi ở trên đó. Mỗi lần họ mở ra chỗ nào để đào xới, thì khi xong việc, họ phải dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ lại như cũ trước khi họ rời chỗ đó. Đây là điều kiện của những người chủ đất khu vườn mộ đặt ra cho họ nếu họ muốn tiếp tục được phép đào xới lần sau. Họ phải di dời hàng tấn đất và đá xà bần trong nhiều năm, vì thế họ rất cần sự giúp đỡ của dân địa phương.


He had met one young local whom he had discovered was very honest and trustworthy, and he began to use him in the actual excavation when Ronny and Danny weren't available.  Those of you who have read our account of the Cave of Machpelah excavation have already been introduced to this young Arab man, whom we called "James" to protect he and his family's identity.  His family owns the land which contains the burial cave in Hebron we believe to be the true Cave of Machpelah.  In addition to earning Ron's trust, James was small and slender - perfect for squeezing through the tight tunnels of the excavation.  It was James that Ron hired to assist him when Danny and Ronny left to return to the states. Ông đã gặp một thanh niên địa phương và ông thấy cậu ta cũng rất thật thà và đáng tin cậy, nên ông bắt đầu dùng cậu ta để thật sự vào đào thay khi mà Ronny và Danny đều vắng mặt. Nếu quý vị đã từng đọc bài của chúng tôi viết về "Cuộc khai quật Hang của Machpelah” chắn hẳn quý vị còn nhớ đến cậu thanh niên Á-rập (Arab) này, chúng tôi tạm gọi cậu ta là "James” (Gia-cơ) để bảo vệ danh tính cậu ta và gia đình. Gia đình cậu ấy là chủ đất tại Hebron mà trong đất đó có một cái hang mà chúng tôi tin hang đó thật sự là hang của Machpelah (Sáng thế ký 23:9, 23:17-19, 25:9, 49:30, 50:13). Cũng nói thêm là James nhỏ con, và mảnh khảnh- nên Ron rất tin tưởng là cậu ấy có thể chui gọn vào trong các địa đạo chật chội để mà đào. Nên Ron thuê James để giúp mình khi cả hai Danny và Ronny đều về Mỹ cả rồi.


Exploring Every "Nook and Cranny" - Tìm kiếm mọi ngóc ngách


Ron and the boys had explored most of the tunnels over the last year, but there were always more.  Ron's plan this trip was to leave no possibility unexplored.  He and James crawled through the vast system of tunnels, now much larger and extensive because of the passages they had opened up and the walls they had chiseled through.  Ron would decide where to go next, then he and James would follow that tunnel.  If and when they found a small opening, Ron would enlarge it enough for James to crawl through, and he would carefully check it out and report to Ron everything that he saw. Ron và hai đứa con trước đây đã tìm kiếm hầu hết các địa đạo trong suốt nhiều năm, nhưng  cứ luôn có nhiều cái đường khác nữa vẫn còn lộ ra hoài mà chưa tìm hết được. Kế hoạch của Ron cho chuyến đi này là "tìm không ra, không về!”. Ông và James bò xuyên qua hệ thống rộng lớn với nhiều hang (địa đạo) chằng chịt, bây giờ còn rộng lớn hơn và chằng chịt nhiều hơn do họ đục nhiều lối thông giữa các đường (hang) với nhau tạo nên. Ron phải quyết định bò đường nào, rồi ông và James cứ thế bò vào. Nếu khi nào họ tìm ra một lối mở dù nhỏ, thì Ron lại mở rộng nó ra để đủ cho James bò vào, cậu ấy kiểm tra cẩn thận rồi báo lại cho Ron mọi thứ cậu ấy nhìn thấy được.


They followed one particularly difficult passageway which took them through a "chimney" which extended straight up.  Then a tight tunnel which was so small that Ron had to exhale in order to squiggle through.  He had to stop to take a breath and when he inhaled, the tunnel was so tight be couldn't fill his lungs completely.  When they got through, Ron saw a very small opening in the wall of the tunnel they were now in. Họ đã bò theo một lối đặc biệt khó, nó dẫn họ xuyên qua một chỗ như là "ống khói” vì nó cứ kéo thẳng lên. Thế rồi đường hầm này nó nhỏ chật quá làm Ron hụt hơi để mà chui qua. Ông phải dừng lại, lấy hơi; khi ông hít vào, do cái đường hầm nhỏ quá làm ông không lấy hết hơi được (không hít đủ không khí vào phổi). Lúc chui qua được rồi, Ron thấy một cái lỗ rất nhỏ trên cái vách đường hầm (hang) mà họ đang ở trong đó.


Directly in front of it was a stalactite about 16 inches long which almost appeared to be guarding the tiny hole.  He knocked the stalactite off (and ended up bringing it home where we still have it today). Peering through the tiny hole, he could see nothing.  So he enlarged it enough to peer in.  All he could see with the aid of his flashlight shining through the hole, was a chamber completely full of rocks (all larger than a fist size) with about 18 inches of clearance between the rocks and the ceiling of the cave.  It didn't look promising at all, but he was leaving nothing unexplored.  So he enlarged it enough for James to crawl through. Ngay phía trước nó là một khối thạch nhũ dài khoảng 16 inches (15.4cm) nó nằm chắn ngang gần như thể là để canh giữ cái lỗ nhỏ xíu đó.


"What's in There?...What's in There?" - "Cái gì ở đó vậy? …cái gì trong đó vậy?”

    

Almost as soon as James crawled through the tiny opening, he frantically came tumbling back out, shaking and shouting "What's in there? What's in there? I'm not going back in there!!" Ron saw in his eyes sheer, complete and utter terror - yet, James said he had seen nothing!  Whatever he experienced was real, for he left not only that chamber, but the entire cave system, never to return. Gần như ngay khi James bò vào cái lỗ nhỏ xíu đó, cậu ta nhào ngược ra 1cách hoảng loạn, run rẩy và la to lên "Cái gì ở đó vậy? Cái gì trong đó vậy? Tôi không vào đó nữa đâu.” Ron thấy đôi mắt cậu ấy trợn ngược, thật sự kinh hãi - Nhưng, James lại trả lời là cậu ấy không nhìn thấy gì hết khi ông ấy hỏi! Cho dù cậu ấy gặp cái gì đi nữa, nhưng rõ ràng cậu ấy không chỉ rời khỏi cái đường hầm đó thôi, mà cậu đã rút khỏi cả hệ thống đường hầm (hang) và không bao giờ quay lại nữa.


It was James' reaction which sparked hesitant excitement in Ron - he would have never given that chamber another look if not for James' terror.  Now alone in this vast cave system, he took his hammer and chisel and enlarged the hole, crawling through.  With only about 18 inches clearance, he had to lie on his stomach with nothing but his flashlight in his hand for light.  Expectant after what happened to James, he looked at his watch - it was 2:00 pm Wednesday, January 6, 1982. Với cách phản ứng của James, nó đã làm cho Ron thêm tò mò – Ông ấy có lẽ chẳng bao giờ để ý đến chỗ đường hầm đó, nếu như James không hoảng loạn như thế. Bây giờ còn lại một mình trong một hệ thống hang động mênh mông, ông cầm búa và đục rồi mở rộng cái lỗ, bò vào. Nó hở ra chỉ khoảng 18 inches (45.72cm), ông phải nằm sấp, không có gì trong tay ngoài cây đèn pin để rọi đường. Sau những gì đã xãy ra với James, đến giờ, ông nhìn đồng hồ. Lúc này là 2 giờ chiều, ngày 6 tháng Giêng năm 1982.

  

Shining his flashlight down through the massive pile of large rocks, his eye caught a glimpse of something shiny.  He began slowly removing the rocks one at a time and discovered some dry-rotted wooden timbers just beneath the rocks, and then some dry-rotted remains of animals skins that turned to powder when he moved them. The animals skins were covering a gold veneered table with a raised molding around the side which consisted of an alternating pattern of a bell and a pomegranate.  It only took him a moment to realize that at the least, this WAS an object from the first temple!  But he was in such a confined space, he couldn't uncover the entire table. He later concluded after closer examination, that this was the Table of Shewbread.
Rọi đèn dọc xuống cái chồng đá lớn dựng đứng trước mặt, mắt ông chợt thoáng nhìn thấy cái gì đó sáng chói bên dưới. Ông bắt đầu từ từ dời từng cục đá và ông phát hiện ra một ít gỗ khô mục nát bên dưới những cục đá, kế đó là một số mẫu da thú cũng khô và mục còn sót lại mà khi ông dời nó đi thì nó rã ra thành bột. Da thú nằm che lên cái bàn bọc bằng vàng với cái đường gờ be nhô lên xung quanh cạnh, mà trên đó có hình hoa văn là cái chuông và trái lựu được lập đi lập lại liên tục. Trong phút chốc, ít nhất là ông ấy cũng đủ kịp nhận ra đây là một vật từ trong đền thờ đầu tiên! Nhưng ông ấy bị kẹt trong cái khoảng không gian chật hẹp như thế, ông không thể mở hết ra để xem hết toàn bộ cái bàn. Sau này, xem xét gần hơn, và ông kết luận đây là cái bàn để bánh trần thiết (bánh thánh) (Xuất 25:23-30).

       
The Discovery of the Earthquake Crack in the Ceiling
Khám phá vết nứt do động đất bên trên nốc

With adrenaline flowing through his veins and great anticipation, he looked around to see what else he could see, which wasn't much.  Hồi hộp tăng lên và hết sức dè dặt, ông nhìn quanh xem coi còn thấy gì nữa không, nhưng không nhìn thấy được gì nhiều.


He shined his flashlight around the open area and then up to the ceiling. Ông rọi đèn quanh cái khu vực hở và rọi ngược lên phía trên nốc.


There, he saw something that caught his eye - it was a crack in the ceiling with a black substance within the crack. Ở đó, ông thấy cái gì đó "đập” vào mắt mình- Một vết nứt trên đó với một chất gì đó màu đen bên trong kẻ. 


Crawling slowly and painfully over the rocks to the rear of the chamber, he saw a stone case extending through the rocks. Bò rướn người chầm chậm và đau đớn trên mấy cục đá vào bên trong cái hốc, ông thấy một cái hộp (hòm) bằng đá lồi ra khỏi đống đá. 


It had a flat stone top which was cracked completely in half, with the smaller section moved aside, creating an opening into the stone case. Cái nắp bên trên nó phẳng và bị nứt ra làm hai, một phần bị dịch chuyển một tí sang bên tạo nên một khoảng hở vào trong (xuống) cái hộp đá.


But the top was too near the ceiling for him to look inside. Nhưng khoảng cách từ cái nắp đó đến cái nốc của cái hốc đá quá gần (nhỏ), nên ông không thể nhìn vào trong đó được.


He knew the ark was inside the stone case.Ông biết là cái Hòm Giao Ước bên trong cái hộp bằng đá này. The crack in the ceiling was directly above the open part of the lid, and the black substance had fallen from the crack onto and into the stone case. Vết nứt trên nốc nằm ngay chính trên chỗ cái nắp hộp bị tách ra, cái chất màu đen bị rơi từ trên kẻ vết nứt vào trong cái hộp bằng đá. 


It was at this time, as Ron recalls, that the realization of what had happened here dawned on him - Như Ron nhớ lại thì lúc đó ông trong đầu ông dần dần hiểu ra điều gì đã xãy ra rồi. 


He then passed out. When he realized that the crack in the ceiling was the end of the crack he had found in the elevated cross hole many feet above him, and the black substance was blood which had fallen through the crack and into the stone case, he KNEW the Ark was in the stone case. Sau đó ông bất tỉnh. Khi ông nhận ra rằng cái vết nứt trên nốc này là phần cuối của khe nứt kéo dài từ chỗ cái lỗ chân cây thập tự cao nhiều feet phía trên, chỗ mà trước đây ông từng phát hiện ra; còn chất màu đen là máu đã chảy xuống qua cái khe nứt, rơi vào bên trong cái hộp bằng đá, ông HIỂU RA là Hòm Giao Ước nằm bên trong cái hộp bằng đá này. 


But the most overwhelming realization was that Christ's blood had actually fallen onto the Mercy Seat or top of the Ark of the Covenant! Nhưng sự nhận thức tràn ngập trong đầu ông nhất, chính là Huyết của Đấng Christ đã thật sự chảy vào kẻ nứt rồi rơi qua chỗ cái nắp hộp bằng đá bị tách đôi ra, sau đó rơi vào trong hộp và nằm lại trên cái nắp Thi Ân của Hòm Giao Ước đặt bên trong!

 

When he regained consciousness, it was 2:45 pm.  A mere 45 minutes had passed since he entered the chamber, yet in that short time he became the first witness to the literal fulfillment of the "type" represented by all the sacrifices made by God's people since Adam and Eve, and later specifically directed by God Himself, in the laws of the sacrificial system.  Now he knew why he and the boys had to do three years of excavation that he had sometimes felt was useless.  If they had not found first the cut-out niches, and then the elevated cross-hole with the earthquake crack, he would not have recognized what had happened here.  The promise Ron believed he had received had now been fulfilled - he DID find the Ark of the Covenant on this trip.  But he didn't even lay eyes on it.  In his frustration and complaining, he received another VERY strong impression - "I only promised that you would FIND it. It will come out when the time is right." Khi ông ấy tỉnh lại, lúc đó là 2 giờ 45 phút chiều. Chỉ có 45 phút trôi qua từ khi ông trườn vào trong cái hốc này. Tuy nhiên, với thời gian ngắn ngủi đó, ông trở thành nhân chứng đầu tiên thấy được sự ứng nghiệm thực sự về "của lễ thật” thay cho hết thảy những của tế lễ dâng bởi người của Đức Chúa Trời đã dâng lên cho Ngài từ thời Adam và Eva, và sau đó điều thật sự ý nghĩa khi chính mình Ngài làm của lễ chuộc tội, trong luật về sự dâng của lễ chuộc tội. Bây giờ ông Ron đã hiểu ra vì sao ông và những đứa con đã phải làm việc trong 3 năm đào xới vậy mà có lúc ông đã nghĩ là phí thời gian vô ích. Nếu ông hồi đầu tiên không có tìm thấy 3 cái hốc đá được cắt ra trên vách đá, rồi đến cái lỗ chứa thập tự giá nằm ở phần nền nhô cao lên cùng với vết nứt do động đất cạnh bên đó, ông chắc hẳn chẳng thể nhận ra điều gì đã xãy ra ở đây đâu. Lời hứa mà Ron tin rằng ông đã được hứa kia, bây giờ đã thành sự thật rồi. Ông đã Thật sự tìm ra Hòm Giao Ước trong chuyến đi này, mà ông đã nhận được một cảm giác thật sự mạnh mẽ khác như là lời nói với ông "Ta chỉ hứa với Ngươi rằng Ngươi sẽ tìm thấy. Sẽ được mang ra khi đúng thì của nó”


The condition of the chamber, completely full within 18 inches of the ceiling, made it impossible for Ron to do anything else.  He could not foresee any possible way of bringing anything out the way he entered, unless the entrance to the chamber through which the objects were originally brought in was found.  He climbed out the small hole, back through the tortuous series of tunnels and sealed the passageway with a stone. To anyone looking through the tunnel, it would appear that it came to an abrupt end.  However, the rock could easily be removed by Ron when he returned. Với điều kiện không gian trong hốc đá (bộng, động) này, chỉ với khoảng cách tối đa là 18 inches (45.72cm),  tính từ nốc/trần, nên Ron không thể làm gì khác được. Ron cũng thấy trước được là chẳng có cách nào để mang bất cứ thứ gì ra khỏi đây nếu phải qua cái ngõ mà ông đã chui vào. Giờ phải khổ sở chui trở ra ngoài qua một chuỗi những đường địa đạo và ông chặn đường vào bằng một hòn đá. Để nếu có ai nhìn vào trong đường hầm này thì tưởng nó chỉ là một ngõ cụt. Tuy nhiên, cái hòn đá đó cũng dễ dàng dời đi chỗ khác khi Ron quay lại.


Ron didn't report his experience to anyone at that time.  He needed time to think and it would be a long time before his mind quit whirring with everything he had experienced.  He had expected to find the Ark and bring it out, but that now seemed impossible.  He made several more trips into the chamber, and eventually reported to the authorities what he had found.  The department of antiquities may not have fully believed his account of the discovery, or perhaps recognizing the problems that this could cause if made public, they told him not to tell anyone about his discovery.  However, it was too late for that, because Ron had already told a few people and he confessed this fact to them.  Realizing that others knew some of the details, they then ordered him not to reveal any more information than he already had revealed.  Therefore from this point on, we cannot be as specific as we have previously. Vào thời gian này, Ron chẳng kể cho ai nghe về những gì ông đã gặp. Ông cần thời gian để suy nghĩ và mất thời gian khá dài để rồi ông chịu thua với "mớ bòng bong” (rối tung) trong đầu với những gì ông trãi qua. Ông đã mong đợi được tìm thấy Hòm Giao Ước và mang nó ra ngoài, thế nhưng bây giờ dường như là vô vọng. Ông quay lại hốc đá đó nhiều lần, kết cuộc ông cũng báo lại với chính quyền địa phương về những gì ông đã tìm thấy. Bộ Di Tích Khảo cổ có lẽ không tin tưởng câu chuyện của ông lắm, hoặc cũng có lẽ họ nhận ra vấn đề nếu như việc này được công bố ra công chúng; nên họ bảo ông đừng kể với ai về khám phá của mình. Tuy nhiên, nó quá trể rồi, bởi vì Ron đã kể cho vài người nghe về sự thật này. Do nhận thấy là có vài người nữa cũng biết nhiều chi tiết về việc này, nên họ ra lệnh cấm ông không được tiết lộ thêm bất kỳ thông tin nào ngoài những gì ông đã kể. Vì thế từ thời điểm này, chúng tôi không thể kể chi tiết cụ thể như từ đầu đến giờ nữa.


The time came when Ron provided something to the authorities from the excavation which DID convince them that he HAD at the least discovered SOME items from the first temple. [One item is the ivory pomegranate found in the Israeli museum today.  Recognized as the only item from Solomon's temple ever to be found]  Then a plan was devised by authorities to "test" the water so to speak- they wanted to carefully determine the public reaction should the announcement be made that the Ark of the Covenant HAD been discovered. The officials that Ron dealt with were serious government servants, concerned with the welfare of the people. They realized that such an announcement would most likely set off a bloody clash between the Jews who would want to rebuild the temple and the Arabs who control the temple mount.  While they did not necessarily have the religious belief that any temple would ever be rebuilt, they were well acquainted with the passion and fanaticism of those who did.  Their efforts to test public reaction to the rebuilding of a new temple resulted in much bloodshed, and many deaths.  [One stone for the new temple was set in place, causing a riot and 19 deaths.]  Until this day, it is an extremely critical issue and the Israelis will handle the situation the way they handle everything else - by a no-nonsense approach with the best interests of the people's safety foremost.  What that approach will be, we don't know and perhaps even they won't know until the time arrives. Thời gian đến khi Ron cung cấp cho chính quyền địa phương một số món đồ vật ông đã tìm thấy trong lúc khai quật để thuyết phục được họ là: ông đã ít nhất cũng tìm được một vài thứ xuất xứ từ đền thờ đầu tiên. [một trong số đó quý vị có thể tìm thấy trong viện bảo tàng Israel ngày nay là trái lựu bằng ngà voi (http://www.arkdiscovery.com/aoc-2.htm). Quý vị có thể nhận ra đây chỉ có thể là đồ vật được dùng mà riêng trong đền thờ (do vua Salomon cất) mới có mà thôi]. Thế rồi một phương án được chính quyền họ đưa ra là để họ "xem thử coi sao đã” rồi mới tính (công bố ra) _ họ muốn xác minh cẩn thận phản ứng của công chúng trước khi đưa ra thông báo chính thức là Hòm Giao Ước được tìm ra rồi. Những viên chức mà Ron phải làm việc với họ là những người phục vụ chính phủ his discovery of the Ark, rất quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội của dân chúng. Họ nhận thấy rằng nếu với thông báo như thế đưa ra, thì sẽ có một trận đụng độ đổ máu giữa những người Do Thái muốn xây lại đền thờ và những người Á-rập muốn kiểm soát vùng núi nơi cất đền thờ Jerusalem (dân Hồi Giáo đang chiếm đóng).

 

Verifying that the Ark was in the Stone Case?. Xác minh xem Hòm Giao Ước nằm trong Hộp bằng đá hay không?


Ron returned to the chamber on several occasions - one time he took a Trinkle Drill used by Orthopedic surgeons and a colonoscope used to look into the human body. He wanted to be sure the Ark was in that stone case.  He tried to drill a small hole with the Trinkle Drill but it wouldn't penetrate the stone.  So he took his star-tipped stone chisel and hammer to accomplish the job.  He would hammer the tip a little, then turn the bit, hammer then turn, over and over until he had an approximately 5/8" hole into the stone case.  The colonoscope is an optical device with a powerful light source which allows doctors to peer into the human body, and Ron had borrowed it from a doctor at the hospital where he worked.  Inserting the colonoscope through the tiny hole, he guided it downward, rotating the lens until he saw what he recognized as the bottom of the crown-molding around the top of the Mercy Seat, and then he saw the flat golden side.  Since the colonoscope doesn't allow viewing of a large area, and since he had little means to guide it other than a small latitude of rotation, he couldn't see a great deal.  But he saw enough to KNOW it was the Ark of the Covenant. Ron quay lại cái hốc(động) đó vài lần nữa- lần đó, ông mang theo một cái mũi khoan Trinkle chuyên dụng trong ngành phẩu thuật chỉnh hình (3 hình minh họa sau đây) 
  
Hình chỉ minh họa

và cái "dụng cụ nội soi ruột” được dùng để nội soi bên trong cơ thể người. Ông muốn làm cho rõ ràng là Hòm Giao Ước có nằm trong cái hộp (hòm) bằng đá đó hay không. Ông cố gắng khoan một lỗ nhỏ với cái mũi khoan Trinkle, nhưng nó không thể xuyên thấu qua đá. Vì thế nên ông dùng búa để đục đá với cái đục có mũi hình ngôi sao. Ông dùng búa vỗ nhẹ mũi đục vào đá tí, sau đó xoay cái đục một chút, rồi lại búa, rồi xoay, cứ thế, cứ thế cho đến khi ông tạo được cái lỗ xấp xỉ 5/8 inches (15.875mm) vào trong hộp (hòm) bằng đá. Cái dụng cụ nội soi ruột là một thiết bị nhìn bằng camera với một nguồn sáng rất mạnh gắn ở đầu (xem hình bên phải), cho phép bác sĩ rọi xuyên vào trong cơ thể người. Ron đã mượn nó từ một bác sĩ trong bệnh viện chỗ ông đang làm. Ông đưa cái dụng cụ nội soi vào trong cái lỗ nhỏ xíu, ông chỉa nó xuống dưới, xoay cái ống kính cho đến khi ông nhận thấy bên phía dưới của cái đường viền (đường chỉ/nẹp) quanh cái bề mặt trên của Nắp Thi Ân, rồi ông thấy mặt phẳng bên hông bằng vàng. Bởi do cái dụng cụ nội soi không cho phép thấy một khu vực rộng được, vì vậy ông phải di chuyển cái đầu có gắn camera đó tới lui thay vì cứ xoay vòng vòng cái đầu nó một chỗ, ông không thể nhìn thấy nhiều được. Nhưng mà ông cũng đủ thấy để biết nó chính là Hòm Giao Ước.


Measuring the Depth of the Earthquake Crack - Đo độ sâu của vết nứt do động đất


Ron had one of his helpers sit by the cross hole used in the execution of Christ.  As he was in the cave below, he extended his measuring tape up through the earthquake crack in the ceiling to the crack beside the cross hole.  It measured twenty feet through solid rock. Ron có một số người giúp đỡ ngồi phía trên, cạnh cái hố cây thập tự nơi Chúa bị đóng đinh. Còn ông thì chui xuống cái hang bên dưới. Ông đút ngược cái thước dây lên trên thông qua cái đường nứt từ cái nốc của hốc đá lên đến cái vết nứt bên cạnh cái lỗ cây thập tự. Họ đo được là: 20feet (6,096m) (tính bên trong vết nứt)


The Contents of the Chamber Những thứ chứa bên trong hốc đá


During his several visits to the chamber, he tried to thoroughly explore the contents. He measured the chamber and found it to be 22 feet long by 12 feet on 2 sides, while the other 2 sides followed the line of the cliff-face, forming a chamber that narrowed down in one corner.  The objects he saw in that chamber that he feels confident in identifying are: the Ark of the Covenant in the stone case; the Table of Shewbread; the Golden Altar of Incense that was used in front of the veil in the sanctuary; the Golden Censer; the seven-branched Candlestick holder, (which didn't have candles but had tiny, bowl-like golden oil lamps which are built into the tips of the candlestick); a very large sword; an Ephod; a Miter with an ivory pomegranate on the tip; a brass shekel weight; numerous oil lamps; and a brass ring which appeared to be for hanging a curtain or something similar. Trong suốt những lần quay lại hốc đá (hang) đó, ông đã cố gắng tìm kiếm thật tỉ mỉ những gì được chứa ở trong đó. Ông đo cái hốc đó và thấy nó dài 22feet (6m7056), ngang 2 mặt đều là: 12feet (3m6576), trong khi 2 mặt còn lại (dài) chạy dọc theo đường vách núi, nên làm cho cái hốc hẹp dần vào một góc. Những đồ vật ông thấy trong cái hốc (hang) đó, ông cảm thấy tự tin để khẳng định là: Cái Hòm Giao Ước nằm trong cái hộp (hòm) bằng đá; Cái bàn đặt bánh trần thiết, bàn thờ xông hương bằng vàng được dùng để đặt ngay trước bức màn trong nơi thánh; lư hương bằng vàng; chân giá đỡ đèn (nến) có bảy nhánh (cây đèn không còn trên giá đó nhưng còn sót lại một mẩu bé tí xíu, những cái đèn dầu bằng vàng trông giống cái chén mà nó được gắn vào đầu của cái chân giá đỡ đèn); một thanh gươm rất lớn; một cái Ephod (bảng đeo ngực), một cái mũ với cái hũ hình quả lựu bằng ngà voi (xem hình bên trên), một cái cân shekel (siếc-lơ) bằng đồng, một số lượng lớn đèn dầu, và một cái vòng bằng đồng trông như là dùng để treo bức màn hay treo cái gì đại loại như thế.
There are more objects, but these are all Ron could positively identify.  All of these objects were covered first by the dry-rotted, dark-colored animal skins, next the dry-rotten wooden timbers on top of the skins, and finally the large rocks piled over everything. Cũng có thêm nhiều vật khác, nhưng tất cả những vật này Ron nhận ra một cách dễ dàng. Tất cả những vật này được đậy lên bởi lớp thứ nhất là da thú màu sậm và khô mục rồi, lớp tiếp theo nằm bên trên lớp da thú, là gỗ mà cũng khô và mục, trên cùng là lớp đá xếp chồng đống lên tất cả mọi thứ.

 
(Đây là mô hình thanh gươm do ông Ron mô tả lại (http://www.wyattarchaeology.com)

Ron has explained basically how the Ark looked, which we won't repeat here since we covered that in newsletter #4, which is also contained in our "Discoveries Volume". The Tables of Stone are still within the Ark, under the Mercy Seat.  On the back of the Ark is a small opening which still contains the Book of the Law and is presumably the original one Moses wrote.  To the best of Ron's knowledge, the Book of Genesis is not there- only Exodus, Numbers, Leviticus, and Deuteronomy.  The thing that amazed Ron was that these Scrolls written on animal skins, are in perfect condition today. Ron đã giải thích một cách cơ bản về cái Hòm Bảng Chứng (Giao Ước) trông ra sao, mà bây giờ chúng tôi sẽ không nhắc lại ở đây nữa vì trong loạt bài viết số 4, và trong những tập film "Discoveries _Khám phá”, chúng tôi nói về vần đề này. Hai bản chứng bằng đá vẫn còn bên trong Hòm, bên dưới Nắp Thi Ân. Phía sau của Hòm là một khoảng hở nhỏ chứa đựng quyển Sách Luật Pháp và ông ước đoán là quyển gốc do Môi-se viết. Theo kiến thức của Ron, thì quyển sách Sáng Thế Ký không có trong đó, mà chỉ còn lại 4 quyển kia (Xuất Ê-díp-tô ký, Dân số ký, Lê-vi ký và Phục Truyền Luật Lệ Ký). Một điều làm Ron thật sự kinh ngạc là những sách này được viết trên những cuộn da thú, và vẫn còn trong tình trạng hoàn hảo đến bây giờ.
 

A Babylonian Cherub had been found carved into the wall of one of the passageways.  Ron believed that this Cherub was placed there to mark the entrance to the passageway that was used by Jeremiah to take the Ark of the Covenant outside the city walls by way of the underground cave system _ Hình khắc Cherub này (số ít của Cherubim gọi là Cherub) của Babilon đã được tìm thấy  trên vách của một trong các hang vào. Ron tin rằng Cherub này được đặt đó để đánh dấu lối vào chính mà có thể Giê-rê-mi sử dụng để đem Hòm  ra khỏi thành và đem giấu vào trong hệ thống hang.




CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN KHÁC:

  1. Hòm giao ước được tìm thấy (Mở đầu)
  2. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 1)
  3. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 2)
  4. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 3)
  5. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 4)
  6. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 5)
  7. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 6)
  8. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 7)
  9. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 8)
  10. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 9)
  11. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần 10)
  12. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần Phụ lục - P1)
  13. Hòm giao ước được tìm thấy (Phần Phụ lục - P2)


Category: Hòm Giao Ước được tìm thấy | Views: 2235 | Added by: khaocokinhthanhvn | Rating: 0.0/0
Total comments: 0
Name *:
Email *:
Code *:
Login

Calendar
«  June 2012  »
SuMoTuWeThFrSa
     12
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930
Entries archive
Our poll
Rate my site
Total of answers: 2
who's online?

Total online: 1
Guests: 1
Users: 0
hit counters